
Các quốc gia công nhận công nghệ hỗ trợ sinh sản trong điều trị vô sinh (nguồn: Biomedical Research and Therapy - Vietnamese Journal for Medical Biotechnology and Medicine Incorporating Advances in Regenerative Medicine).
Công nghệ hỗ trợ sinh sản là gì?
Theo M.E. Graham và cs (2022) [1], công nghệ hỗ trợ sinh sản bao gồm các phương pháp điều trị vô sinh, trong đó trứng hoặc phôi được xử lý bên ngoài cơ thể phụ nữ để thúc đẩy quá trình mang thai thành công. Ngày nay, công nghệ hỗ trợ sinh sản đã và đang mang lại hy vọng và cơ hội làm cha mẹ cho hàng triệu cặp vợ chồng trên toàn thế giới đang phải đối mặt với vấn đề vô sinh.
Các phương pháp, kỹ thuật tiên tiến của công nghệ hỗ trợ sinh sản cho phép can thiệp vào quá trình sinh sản tự nhiên, tăng khả năng thụ thai và sinh con khỏe mạnh. Một trong những phương pháp công nghệ hỗ trợ sinh sản phổ biến nhất là thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Trong đó, trứng và tinh trùng được kết hợp trong phòng thí nghiệm để tạo thành phôi. Phôi sau đó được chuyển vào tử cung của người phụ nữ. Một kỹ thuật phổ biến khác là tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) được sử dụng khi chất lượng tinh trùng kém. Trong ICSI, một tinh trùng duy nhất được tiêm trực tiếp vào trứng để tăng khả năng thụ tinh. Ngoài ra, kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI), trong đó mẫu tinh trùng đã được lọc rửa được bơm trực tiếp vào tử cung của người phụ nữ.
Về mặt lợi ích, công nghệ hỗ trợ sinh sản không chỉ giúp các cặp vợ chồng vô sinh có con mà còn cho phép những người phụ nữ đơn thân hoặc các cặp đôi đồng tính nữ (Lesbian) thực hiện ước mơ làm mẹ. Ngoài ra, công nghệ còn được sử dụng để sàng lọc di truyền phôi, giúp giảm nguy cơ sinh con mắc các bệnh di truyền. Tuy nhiên, công nghệ hỗ trợ sinh sản cũng vướng phải nhiều ý kiến về mặt đạo đức như lựa chọn giới tính của thai nhi, mang thai hộ, việc sử dụng trứng hoặc tinh trùng hiến tặng…
Động thái của các quốc gia trong việc công nhận công nghệ hỗ trợ sinh sản
Việc công nhận công nghệ hỗ trợ sinh sản đã được ban hành ở nhiều nước. Trong một nghiên cứu thống kê gần đây của A. López và cs (2021) [2] về nhu cầu điều chỉnh thực hiện công nghệ hỗ trợ sinh sản ở Mexico cho biết, ngoại trừ EU, các văn bản quy định việc áp dụng công nghệ hỗ trợ sinh sản vào thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là tại các quốc gia Hồi giáo.
Tại Vương quốc Anh, định kỳ 3 năm một lần Cơ quan Thụ tinh và phôi thai người (HFEA) sẽ tiến hành khảo sát bệnh nhân toàn quốc để thu thập phản hồi của bệnh nhân về kinh nghiệm điều trị hiếm muộn, giúp các đơn vị y tế đánh giá trải nghiệm dịch vụ chăm sóc khả năng sinh sản của bệnh nhân, xem xét lại hệ thống chuẩn mực và định hướng công việc phù hợp. Ngoài ra, HFEA cũng đưa ra các chính sách cho Chính phủ Anh trong việc khuyến khích phát triển công nghệ hỗ trợ sinh sản như đề xuất thay đổi luật về quản lý nghiên cứu phôi thai trong điều trị hiếm muộn để đảm bảo bảo vệ tốt hơn cho những bệnh nhân điều trị sinh sản.
Tại Mỹ, các sản phẩm liên quan đến tế bào gốc và công nghệ hỗ trợ sinh sản phải tuân theo hướng dẫn quản lý của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA). Đánh giá của Viện Y tế quốc gia Mỹ (NIH), y học tế bào gốc và các công nghệ liên quan đến hỗ trợ sinh sản là một bước tiến quan trọng của nền văn minh y tế [3]. Theo Trung tâm Hiến tặng Phôi thai Quốc gia Mỹ (NEDC), công nghệ hỗ trợ sinh sản vừa là giải pháp cho những cặp đôi gặp khó khăn trong việc thụ thai tự nhiên, vừa là một ngành công nghiệp y tế tiềm năng, góp phần nâng cao giá trị ngành y tế nước nhà trên thị trường quốc tế.
NEDC nhận định công nghệ hỗ trợ sinh sản là một bước tiến mang lại khả năng sống sót của phôi thông qua các phương pháp như IVF, ICSI, IUI và tạo giao tử trong ống nghiệm (IVG). Về mặt kỹ thuật, kết quả nghiên cứu thực nghiệm của A.L. Golf và cs (2024) [4] cho thấy, quy trình IVG sẽ là một lựa chọn phù hợp hơn so với IVF, trong tương lai có thể thiết lập một tiêu chuẩn mới về sức khỏe sinh sản.

Ứng dụng công nghệ hỗ trợ sinh sản thông qua phương pháp IVF (nguồn: Cổng thông tin Trung tâm Y tế Quận 5 TP Hồ Chí Minh).
Thông qua sự trợ giúp của công nghệ hỗ trợ sinh sản, NEDC đã giúp đỡ các bệnh nhân thực hiện ước mơ có con. Tại NEDC, nhiều gia đình đã chấp nhận chia sẻ câu chuyện cá nhân của mình ở cả hai khía cạnh hiến phôi và nhận phôi, đơn cử như câu chuyện vào năm 2022 của cặp vợ chồng ở Oregon, nước Mỹ đã chào đón cặp song sinh từ phôi thai được đông lạnh cách đây 30 năm. Sự quan tâm ngày càng lớn của cộng đồng đối với việc hiến và nhận phôi cho thấy, đây là một nhu cầu thực tế, mang tính nhân văn sâu sắc. Rất nhiều người sẵn sàng thực hiện hành động cao đẹp này, góp phần mang lại niềm vui và hy vọng cho những gia đình gặp khó khăn.
Đồng thời, gần đây Chính phủ một số nước còn cấp bằng sáng chế đối với các quy trình kỹ thuật liên quan đến công nghệ hỗ trợ sinh sản. Tiêu biểu như tại EU, một số bằng sáng chế liên quan đến quá trình IVG đã được Văn phòng Sáng chế châu Âu (EPO) công nhận [5].
Một số kiến nghị
Nhằm theo kịp sự phát triển không ngừng của y học nói chung và công nghệ y tế nói riêng, Chính phủ và các cơ quan liên quan cần xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và chính sách phát triển đối với công nghệ hỗ trợ sinh sản. Dưới đây là một số kiến nghị mà Việt Nam có thể xem xét trong thời gian tới.
Một là, cần xây dựng danh mục rõ ràng, chi tiết về các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được phép áp dụng tại Việt Nam, bao gồm: tạo giao tử trong ống nghiệm (IVG), IVF, bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI), tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) và các kỹ thuật tiên tiến khác. Mặt khác, quy định cụ thể các điều kiện áp dụng đối với từng kỹ thuật.
Hai là, bổ sung quy định về lưu trữ dữ liệu (loại dữ liệu được phép lưu trữ, thời gian lưu trữ, mục đích sử dụng dữ liệu), trong đó thiết lập các nguyên tắc về việc lưu trữ dữ liệu cá nhân (họ tên, ngày sinh, địa chỉ, số điện thoại, thông tin y tế), dữ liệu sinh học (DNA, mẫu máu, các kết quả xét nghiệm) của người bệnh để đảm bảo quyền riêng tư và an toàn thông tin trong lĩnh vực y tế.
Ba là, Bộ Y tế nên tăng cường chính sách công khai danh sách các cơ sở y tế được cấp phép hoạt động trên các phương tiện thông tin đại chúng, giúp người dân dễ dàng tiếp cận thông tin. Bên cạnh đó, Thanh tra Chính phủ thiết lập cơ chế kiểm tra, phối hợp giám sát chặt chẽ quy trình cấp phép hoạt động đối với các cơ sở y tế thực hành công nghệ hỗ trợ sinh sản để đảm bảo chất lượng dịch vụ, bảo vệ quyền lợi của người dân và ngăn chặn các hành vi vi phạm. Đồng thời, ban hành những chế tài xử phạt đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm.
Bốn là, thúc đẩy đào tạo, bồi dưỡng lực lượng y bác sỹ, đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ hỗ trợ sinh sản để nâng cao năng lực và chất lượng dịch vụ thông qua việc liên tục cập nhật kiến thức, các kỹ thuật mới và phương pháp điều trị tiên tiến trên thế giới. Theo Quyết định số 89/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 23/01/2024 về Phê duyệt chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045 đặt mục tiêu phát triển nguồn nhân lực y tế toàn diện, cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu ngành. Về lâu dài, định hướng hệ thống y tế quốc gia đến năm 2045 phát triển hiện đại, hội nhập quốc tế, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] M.E. Graham, A. Jelin, A.H. Hoon, et al. (2022), “Assisted reproductive technology: Short- and long-term outcomes”, Developmental Medicine & Child Neurology, 65(1), pp.38-49, DOI: 10.1111/dmcn.15332.
[2] A. López, M. Betancourt, E. Casas, et al. (2021), “The need for regulation in the practice of human assisted reproduction in Mexico. An overview of the regulations in the rest of the world”, Reproductive Health, 18(241), DOI: 10.1186/s12978-021-01293-7.
[3] The National Institutes of Health (2009), “National Institutes of Health Guidelines for Human Stem Cell Research”, https://www.smu.edu/-/media/site/legalaffairs/nacuanotes/stemcell_b.pdf, truy cập ngày 10/03/2025.
[4] A.L. Goff, R.J. Hein, A.N. Hart, et al. (2024), “Anticipating in vitro gametogenesis: Hopes and concerns for IVG among diverse stakeholders”, Stem Cell Reports, 19(7), pp.933-945, DOI: 10.1016/j.stemcr.2024.05.002.
[5] D. Cyranoski, J.L. Contreras, V.T. Carrington (2023), “Intellectual property and assisted reproductive technology”, Nature Biotechnology, 41, pp.14-20, DOI: 10.1038/s41587-022-01592-9.